Những Bí Ẩn Trong Quan Hệ Trung - Việt --- Trần
TN - Tờ Văn Hối báo, ở Hong Kong, nhắc lại câu nói của Đặng Tiểu Bình "dạy cho Việt Nam một bài học" hồi 1979, tờ này nói Trung Quốc cần "giảng cho Việt Nam một bài về thế nào là đồng thuận." Trước bối cảnh quan hệ Trung - Việt càng lúc càng phức tạp, bài học Đặng Tiểu Bình lần thứ hai có khả năng xảy ra. Tác giả gửi lại bài nghiên cứu viết từ 2004 liên hệ đến sự kiện họ Đặng đã "dạy cho Việt Nam bài học thứ nhất" để độc giả nhận định.
Cách đây gần 25 năm (*), đúng vào ngày 17 tháng 2 năm 1979. Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tràn xuống các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam .Hổ trợ bởi trọng pháo và xe tăng, bộ binh Trung Quốc đã thọc sâu hơn 8 cây số, chiếm giữ các vùng thuộc tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Ngày 5 tháng 3, mười chín ngày sau đó quân đội Trung Quốc bắt đầu rút lui, để lại sau lưng các làng mạc đã bị phá họai và tiêu hủy tang thương. Đặng Tiểu Bình tuyên bố, chiến dịch dạy cho Hà Nội một bài học chính thức chấm dứt.
Trong suốt những năm 1980, quan hệ Bắc Kinh - Hà Nội chuyển sang giai đoạn chiến tranh lạnh, mà Hà Nội đã từng gọi là cuộc chiến tranh phá hoại muôn mặt. Hà Nội cáo buộc Trung quốc đã liên tiếp thực hiện các hoạt động xâm lấn, các hoạt động tình báo và gây rối bao gồm việc thả mìn trên sông, và một số vùng biển. Quân đội Trung quốc cũng đã bắn trọng pháo qua các vùng lân cận, tìm cách phá hủy mùa màng ở các vùng miền núi, các trạm liên lạc và giao thông....Lo sợ cuộc xâm chiến lần thứ hai có thể xảy ra, Hà Nội đã dàn hơn nữa triệu quân (500,000.00) dọc theo các tỉnh phía Bắc, đặt quân đội trong tình trạng báo động.
Ngược lại, Trung Quốc cũng đã trải hơn bốn trăm ngàn quân (400,000.00) đóng ở các vùng biên giới, liên tục thao dượt quân sự trên các vùng đảo Hải Nam và không ngừng gia tăng áp lực quân sự về phía Hà Nội.
Mối bất hoà đôi bên đã âm ỉ từ lâu. Theo Hà nội, qua cuốn bạch thư công bố 1979 thì Bắc Kinh đã chèn ép Hà Nội trên một số lãnh vực và hứa hẹn thì nhiều nhưng chẳng cho bao nhiêu. Tuy nhiên vì cầu cạnh viện trợ trong cuộc chiến trước 1975 nên Hà Nội đành ngậm bồ hòn. Tháng 4 năm 1965, khi chiến sự tại Việt Nam đang trên đà leo thang, Lê Duẩn, lúc công du tại Bắc Kinh đã kêu gọi Bắc Kinh gia tăng viện trợ quân sự không những vật chất mà luôn cả nhân sự nữa.
Lê Duẩn: Chúng tôi cần nhiều phi công tình nguyện, bộ đội tình nguyện và các tình nguyện viên khác, bao gồm cả đơn vị thuộc cầu cống và đường xá.
Liu Shaoqi: Chúng tôi chủ trương yễm trợ quý quốc hết sức mình. Chúng tôi sẽ viện trợ bất cứ điều gì Việt nam cần và chúng tôi đang trong vị trí chuẩn bị điều này. Nếu quý quốc không mời, chúng tôi sẽ không đến. Tuy nhiên nếu mời quân đội Trung Quốc vào Việt Nam thì chúng tôi sẽ gửi quân. Mọi chuyện tùy thuộc vào quý vị.
Lê Duẩn: Chúng tôi mong muốn phi công tình nguyện Trung quốc đến Việt nam để thực hiện bốn nhiệm vụ sau: làm hạn chế việc Mỹ thả bom ở các khu vực phía Nam thuộc vĩ tuyến 19 hoặc 20, làm nhiệm vụ bảo vệ Hà nội, bảo vệ các điểm giao thông trọng yếu, và làm tăng tinh thần của nhân dân Việt Nam. (1)
Tuy nhiên đến khi Hà nội chính thức yêu cầu gửi phi công yểm trợ thì phía Trung Quốc qua nội dung bức thư hồi tháng 7 năm 1965 lại trả lời là : thời điểm chưa thuận tiện để phi công Trung quốc sang chiến đấu tại Việt Nam . (2)
Cũng trong lần tiếp kiến tháng 6 năm 1973, giữa Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị với Chu Ấn Lai. Khi Việt nam đặt lại vấn đề viện trợ nhà máy lọc dầu mà Trung Quốc đã hứa hẹn trước đó, Trung Quốc đã tìm cách từ chối khéo.
Lê Duẩn: Chúng tôi muốn có nhà máy lọc dầu đa dạng với lưu lượng sản xuất cở 3 triệu tấn mỗi năm để chúng tôi có thể sản xuất xăng dầu, nhựa. Thủ tướngChu lần trước có cho biết là nhà máy loại này có thể sản xuất ra hàng trăm sản phẩm khác nhau. Tôi rất sung sướng và đã trình bày lại Bộ Chính Trị. Ai nấy đều phấn khởi cả vì đây là một viện trợ vô giá. Tuy nhiên sau đó được biết là phía Trung Quốc chỉ có thể giúp chúng tôi sản xuất vài loại dầu thôi, vì vậy tôi hết sức thất vọng. Lần này, tôi đặt vấn đề trở lại, hy vọng Chủ tịch Mao có thể tặng Việt nam nhà máy này. Nhà máy này hết sức quan trọng đối với chúng tôi, mong là lần này tôi không bị thất vọng.
Lê Duẩn: Tôi phải cho Thủ tướng biết điều này, là phía ngườI Nhật đã đồng ý viện trợ chúng tôi nhà máy có thể sản xuất đến 4 tấn hàng. Tuy nhiên chúng tôi mong muốn được giúp đỡ từ phía Trung quốc hơn.
Lê Duẩn: Không, nhưng họ cho biết là sẽ gửi chuyên viên đến để khảo cứu và sau đó sẽ tiến hành việc xây dựng nhà máy. (1)
Trung Quốc tiết lộ là kể từ năm 1965 đến 1973 đã có hơn ba trăm ngàn (300,000.00) quân Trung Quốc hiện diện tại Bắc Việt, chưa kể những phí tổn mà Bắc Kinh đã phải chi tiêu riêng cho việc tiếp tế vũ khí, đạn dược, thuốc men và thực phẩm xuyên qua ngõ Cam Bốt cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Khi quân đội Trung Quốc rút khỏi Hà Nội hồi cuối tháng 8 năm 1973, số tử vong của quân Trung Quốc đã có hơn 1000 người và có tới 4200 người bị thương tật. (3)
Trong cuộc trao đổi giữa Mao Trạch Đông với Phạm Văn Đồng và Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh). Bắc Kinh cho biết đã phải trả tiền lộ phí cho Sihanouk lên đến hơn 20 triệu mỹ kim mỗi năm.
Mao Trạch Đông: Cũng cần phải trả tiền lộ phí, và điều này rất cần thiết.
Phạm Văn Đồng: Chúng tôi phỏng chừng số tiền này còn lớn hơn tiền viện trợ của Mỹ
Mười Cúc: Trước kia, Mỹ viện trợ cho Cam Bốt 20 triệu mỹ kim một năm. Bây giờ số tiền Trung Quốc trả cho Sihanouk chi tiêu lộ phí và mua lúa gạo đã hơn 20 triệu rồi. Bằng cách giúp đỡ chúng ta, Sihanouk vừa hưởng lợi vừa được tiếng tốt.
Phạm Văn Đồng: Sihanouk cũng được lợi về mặt quân sự vì chúng ta đã phòng ngự dùm Cam Bốt mặt phiá đông kề biên giới của Nam Việt Nam . (4)
Trung quốc phải trả tiền không những riêng cho Sihanouk mà còn luôn cả Lon Nol nữa khi mượn đất Cam Bốt để vận chuyển và tiếp tế vũ khí cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam . Cuộc tiếp kiến giữa Chu Ấn Lai, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Lê Thanh Nghị tại Bắc Kinh hồI tháng 7 năm 1973 cũng đề cập đến vấn đề này:
Lê Duẩn: Những người anh em Cam Bốt đã có những tiến bộ đáng kể, họ đang đạt nhiều thắng lợi.
Phạm Văn Đồng: Chúng ta đã không dự phòng điều này, tuy nhiên cũng đáng đời Lon Nol
Liên hệ giữa Liên Sô và Trung Quốc cũng góp phần ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung - Việt. Sau cuộc rạn nứt về ý thức hệ năm 1963, Trung Quốc và Liên Sô đều muốn lôi kéo Hà Nội về phía mình. Năm 1964, khi Khrushcev bị lật đổ, Chu Ấn Lai và phái đoàn Trung Quốc đã viếng thăm điện Cẩm Linh. Tại đây, các nhà lãnh đạo Cẩm Linh đã đề nghị Bắc Kinh nên lật đổ Mao Trạch Đông, cũng giống như họ đã làm đối với Khrushcev. Chu Ấn Lai giân dử phản ứng lại và cho rằng Liên Sô đã nhục mạ chủ tịch Mao, nhân dân Trung Quốc, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và chính cá nhân của họ Chu (5)
Sau chuyến đi đó, họ Chu đã thố lộ cùng với Hồ Chí Minh và Lê Duẫn là: những nhà lãnh đạo mới của Liên Sô chẳng có thay đổi gì cả ngoại trừ chủ nghĩa của Khrushcev.
Trung quốc hoàn toàn muốn Hà nội đi theo quỹ đạo của họ nhằm chống lại Liên Sô. Ngược lại, Liên Sô cũng không ngừng gia tăng ảnh hưởng của Liên Sô lên Hà Nội. Trong cuộc viếng thăm Hà nội hồi tháng 2 năm 1965 cùng với một số chuyên viên về hoả tiển, bộ trưởng ngoại giao Nga đã kêu gọi Hoa kỳ nên rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và hứa hẹn sẽ gia tăng viện trợ cho cuộc chiến của Bắc Việt.
Hà nội có khuynh hướng thân thiện với Moscow hơn sau cuộc đảo chánh Khrushcev, vì lúc đó Hà nội cần các kỷ thuật cao về phòng không để đối đầu với các cuộc oanh tạc từ phía Hoa Kỳ, mà Trung Quốc đã không đủ khả năng cung ứng. Lo sợ Hà Nội chạy theo Liên Sô, chính Đặng Tiểu Bình đã bí mật đến Hà nội để hứa hẹn là sẽ viện trợ 1 tỷ dollars mỗI năm cho Việt Nam .
Hà nội cũng cho là Trung Quốc đã cố tình tìm cách ngăn chận và làm chậm trể hàng viện trợ từ phía Liên Sô khi phải nhờ vận chuyển hàng đi qua Trung quốc.Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trung quốc Qiao Guanhua than phiền với đại sứ Bắc Việt tại Bắc kinh hồi tháng 5 năm 1967 về vấn đề hàng viện trợ của Nga như sau:
Qiao Guanhua: Tôi có một vấn đề cần phải bàn thảo cùng với đại sứ. Đó là chuyện liên hệ đến hàng viện trợ của Liên Sô. Ngày 6 tháng 5 năm 1967, chúng tôi đã được thông báo từ Hà nội và luôn cả tại Bắc kinh từ thứ trưởng Nghiêm Bá Đức và đồng chí Phạm Thanh Hà là trong hai tháng 5 và 6, phía Liên Sô sẽ viện trợ 12 chiếc Mig-17 và 12 Mig-21 cho Việt Nam và quý quốc cần chúng tôi giúp đở cho việc vận chuyển qua Trung Quốc. Tuy nhiên ngày 9 tháng 5 khi đồng chí Pham Thanh Hà chính thức cho biết là sẽ nhờ vận chuyển 24 chiếc Mig này qua đường tàu hỏa. Thì ngược laị, phía Liên Sô thông báo với chúng tôi hôm ngày 8 là họ sẽ sử dụng máy bay AN-12 bay trên không phận Trung quốc để chở 24 chiếc Mig này. . . . ..Phía Trung Quốc đã nghiên cứu đề nghị này rất kỷ lưởng, chúng tôi quyết định đồng ý đề nghị vận chuyển bằng đường xe lửa của đồng chí Pham Thanh Hà, nhưng không chấp nhận đề nghị từ phía Liên Sô chuyên chở bằng đường hàng không. (1)
Sau 1975, mối bất hòa càng trở nên sâu đậm. Hàng loạt các biến cố xãy ra làm đổ dầu thêm lữa đã dẫn đến cuộc tấn công biên giới phiá Bắc. Trung quốc tỏ thái độ không bằng lòng và công khai phản đối Hà nội trước một số sự kiện như : Vụ Hà Nội đối xử tệ bạc với người Hoa năm 1978, vụ chiếm Nam Vang năm 1978 , vụ tranh dành chủ quyền ranh giới phía Bắc, vụ Hà Nội ký hiệp ước hữu nghị và liên minh quân sự với Liên Sô 1978, và nhất là các cuộc trạm chán ở biển Đông về chủ quyền đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vùng đảo theo lượng giá của Cục Địa Chất và Khoáng Sản Trung Quốc thì chỉ riêng Trường Sa cũng đã có trử lượng tới 17.7 tấn dầu khí và hóa chất, đứng hàng thứ tư lớn nhất về trử lượng trên thế giới và gần gấp hai lần trử lượng của quốc gia Kuwait. (7)
Tháng 1 năm 1974, Hải Quân Trung Quốc bất thần tấn công và chiếm giữ các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa do Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ. Năm 1975, khi làm chủ được Saigon, Hà Nội đã lập tức đem quân ra chiếm đóng tổng cộng được 21 đảo nhỏ thuộc khu vực Trường Sa, vùng đảo mà Trung Quốc đã chính thức xác nhận chủ quyền trước năm 1975. Hà Nội bắt đầu đòi chủ quyền các vùng đảo này khi đã hoàn toàn chiếm được miền Nam Việt Nam . Trước đó, khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, Hà Nội đã im lặng để được nhận viện trợ quân sự. Năm 1958, chính Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng đã xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Sau cuộc giao tranh ở biên giới Trung - Việt năm 1979, đến năm 1988, Hải Quân Trung Quốc và Việt Nam lại trực tiếp đụng độ một lần nữa trên biển Đông, tại vùng đá ngầm Johnson thuộc khu vực Trường Sa. Cuộc chạm trán lần này đã làm Hà Nội chìm hết hai tầu chiến và thiệt mạng hơn 70 thủy thủ. Hà Nội đã tìm cách tái chiếm được hai trong số sáu đảo san hô đã từng bị Trung Quốc chiếm đóng sau đó. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, Zhu Bangzao họp báo và tuyên bố về sự việc trên như sau: Trung Quốc đòi hỏi Việt Nam phải lập tức rút quân ra khỏi các vùng đảo thuộc chủ quyền của Trung Quốc đã bị Việt Nam chiếm giữ bất hợp lệ, dẹp bỏ những căn cứ xây cất và phải đãm bảo là không để những hành động tương tự xảy ra trong tương lai. (8)
Cùng lúc, những xung đột ở phía biên giới Tây Nam Việt Nam giữa Hà Nội và Nam Vang càng lúc càng tăng cường độ. Các mâu thuẩn về biên giới, cộng với chính sách ngoại giao đối đầu của Pol Pot đã làm CSVN phải tìm cách giải quyết càng sớm càng tốt vì sợ bị nằm trong thế gọng kềm với Trung Quốc và Cam Bốt. Trước khi quyết định tấn công Nam Vang năm 1978, Hà Nội đã tìm nhiều giải pháp để giải quyết những xung đột, kể cả việc mưu sát Pol Pot. (9)
Tháng 9 năm 1977, vài ngày trước khi ra lệnh tấn công vào các làng dọc theo biên giới Miên-Việt, Pol Pot trong lần xuất hiện đầu tiên tại Nam Vang đã công khai xác nhận sự hiện hữu của Đảng CS Cam Bốt, đồng thời trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh cũng vào tháng 9 năm 1977, Pol Pot đã tường trình lại tình hình Miên Việt cho Hoa Quốc Phong.
Pol Pot: Nga Sô, Cu Ba và Việt Nam đang cùng cộng tác để chống lại chúng tôi ở các khu vực biên giới. Chúng tôi nghĩ rằng họ đã cài người của họ nằm vùng trong quân đội của chúng tôi. Ở cấp độ trung ương, họ có năm người, ở cấp sư đoàn có chừng 4 đến 10 người và họ cũng có cán bộ của họ ở các vùng tỉnh khác nữa. Kể từ tháng 9 năm 1975, Việt Nam đã có kế hoạch tấn công Nam Vang, Preyveng và các tỉnh gần biên giới. Họ đã từng ám sát cán bộ lãnh đạo của chúng tôi bằng súng ám sát và thuốc độc. Họ đã nhiều lần bỏ thuốc độc vô thức ăn tuy nhiên chúng tôi may mắn đã không ăn. Thái lan, Nga và Việt Nam cùng chủ mưu. Chúng tôi cũng nắm được tài liệu cho thấy là có cả Hoa Kỳ và Việt Nam cùng cộng tác trong vụ này.......Chúng tôi cũng hiểu là quân đội Việt Nam không còn mạnh nữa, họ bây giờ phụ thuộc nhiều vào hỏa lực mạnh như trọng pháo, xe tăng và máy bay. Bộ đội của họ không còn muốn đánh nhau, nhiều người từ phía Bắc đã lấy thêm vợ ở phía Nam và vì vậy họ không còn ham chiến nữa. Cam Bốt không sợ phải đánh nhau với Việt Nam, nhưng chúng tôi khôngan tâm trước mối đe dọa liên tục từ họ... (1)
Tháng 4 năm 1975, Hà Nội làm chủ được Saigon . Năm tháng sau, tháng 9 năm 1975, phái đoàn cao cấp đảng CSVN do Lê Duẩn, tổng bí thư đảng chính thức qua Trung Quốc để tham vấn. Trong cuộc hội kiến giữa lảnh đạo hai nước, Đặng Tiểu Bình đã than phiền và đặt vấn đề với Lê Duẩn về một số dư luận bất lợi đối với Trung Quốc:
Đặng Tiểu Bình: Có một vài dấu hiệu không tốt xảy ra trong quan hệ hai nước. Một số là những chuyện đã có từ thời chủ tịch Hồ còn sống. Chúng tôi phải nói thẳng rằng là không lấy làm dể chịu cho lắm khi đọc trên báo chí Việt Nam cũng như biết về quan điểm của nhân dân Việt Nam . Sự thật là quý vị đã nói quá đáng về mối đe dọa phương Bắc. Đối với Trung quốc, mối đe dọa phương Bắc chính là sự hiện diện của quân đội Liên Sô ở biên giới phía Bắc, tuy nhiên đối với Việt Nam thì có nghĩa là Trung Quốc.
Lê Duẩn: Chúng tôi không nói như vậy đâu.
Đặng Tiểu Bình: Tôi vẫn còn nhớ cuộc hội kiến giữa chủ tịch Hồ, tôi và thủ tướng Chu Ấn Lai. Ông Hồ có nhắc đến việc này rồi. Lúc đó, chúng tôi có hàng trăm ngàn quân đóng ở Quảng Đông và Quảng Tây. NgườI Việt và quý cán bộ dùng lịch sử để ám chỉ hiện tại, nói đến mối đe dọa từ phương Bắc. Câu hỏi đối với vị trí của Liên Sô cũng được đặt ra. Thủ tướng Chu đã nói thẳng với chủ tịch Hồ là: chính Việt Nam đang đe dọa Trung Quốc. Riêng tôi, tôi đã nói với chủ tịch Hồ là ông có nghỉ rằng chúng tôi đe doạ quý quốc không? Nếu đúng chúng tôi sẽ rút quân hết từ Quảng Đông, Quảng Tây và chuyển lên biên giới Trung - Nga. Lý do chúng tôi muốn có quân đội trú đóng ở đó chỉ vì dự phòng tình huống có thể xảy ra như chiến tranh Triều Tiên trước kia thôi. Chúng tôi phải đề phòng một cuộc tấn công từ phía ngườI Mỹ. Chủ tịch Hồ có cho ông biết về cuộc họp đó không?
Lê Duẩn: Thú thực, chúng tôi không biết gì cả về chuyện này từ phía chủ tịch Hồ. Tuy nhiên tôi có nghe qua về một vở kịch.
Đặng Tiểu Bình: Thời đó đã có một vài bài báo và dư luận làm tổn hại liên hệ đôi bên. Chúng tôi đã cho chủ tịch Hồ biết về quan điểm của chúng tôi. Chủ tịch Hồ đã trả lời là: ông không đồng ý khi cho rằng Việt Nam đe dọa Trung Quốc. Ông Hồ cũng không đồng ý với việc rút quân ra khỏi hai tỉnh này. Tuy nhiên, khi tình thế thay đổi chúng tôi đã quyết định rút quân. Những năm gần đây, sự việc như vậy vẫn tiếp diễn và dường như có chiều hướng gia tăng. Mối đe dọa từ phương Bắc vẫn là luận điệu chính, kể cả trong sách vở của qúy quốc. Chúng tôi cảm thấy không bằng lòng đối với vấn đề này. Quan hệ giữa đôi bên rất rõ ràng, chúng tôi không thôn tính một tất đất nào của quý quốc cả. (1)
Cuộc tiếp kiến giữa Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình sau 1975 đã cho thấy dấu hiệu rạn nứt càng lúc càng trầm trọng. Họ Đặng đã không che đậy và vòng vo giống như các cuộc tiếp kiến trước đó, ông đã bày tỏ sự bất mãn cũa mình đối với Lê Duẫn. Tuy nhiên, phải mất bốn năm sau Đặng Tiểu Bình mới có cơ hội trút hết cơn giận khi ông ra lệnh cho quân đội nhân dân Trung Quốc tràn qua biên giới Hoa-Việt để dạy cho Hà Nội một bài học đẫm máu.
Trần Nam
(*) Bài này viết từ 2004
--------
1) Việt Nam War- New Evidence on the Vietnam/Indochina Wars.
(2) R. B. Smith -The Making of a Limited War, 65-66
(3) Li, "The Indelible Mark on History of Chinese Assistance to Vietnam against the United States "
(4) Conversation between Mao Zedong and Pham Van Dong, Beijing 17 November, 1968 - Cold War International History Project
(5) Yu Zban - An unsual visit: Remember Zhou Enlai last visit to the Soviet Union - Party Documents (1992)
(6) "Secrets of Former Friends," Far Eastern Economic Review (15 June 1979), 38-39.
(7) Michael Leffer - Chinese Economic Reform and Security Policy, the South China Sea Convention.
(8) Taiwan Security Research
(9) Vietnam - Conflict with Cambodia/CIA Facts
http://www.conongviet.com/ChinhTri/WEB-004%20-%20NHUNG%20BI%20AN%20TRONG%20QUAN%20HE%20TRUNG%20VIET.htm